Cậu học trò nghèo mang theo cuốn sổ hộ nghèo bước vào giảng đường, 5 năm sau trở thành thủ khoa khiến cả hội trường xúc động
Hành Trang Của Tuấn
Tuấn sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo ven biển Quảng Trị – nơi đất cát nhiều hơn cây xanh, nơi tiếng gió Lào hun nóng những giấc mơ của trẻ con từ khi chúng còn chưa kịp lớn. Gia đình Tuấn từng có những tháng ngày hạnh phúc khi còn đầy đủ bố mẹ, dù nghèo khó nhưng ấm cúng. Bố em là một người thợ xây, ngày ngày bám công trình, đổ mồ hôi nuôi sống gia đình. Mẹ Tuấn bán rau ngoài chợ, tảo tần sớm hôm. Thế rồi, một tai nạn lao động đã cướp đi bố em mãi mãi khi Tuấn mới học lớp 5. Từ đó, gánh nặng gia đình dồn cả lên vai người mẹ yếu ớt.
Bi kịch chưa dừng lại. Năm Tuấn học lớp 8, mẹ em phát hiện bị suy thận mạn, phải lọc máu định kỳ. Chi phí thuốc men, viện phí cứ thế chồng chất lên căn nhà nhỏ vốn đã nghèo xác xơ. Họ hàng xa thì ai cũng nghèo, không giúp được nhiều. Khi những khoản vay ngân hàng không thể trả nổi, mẹ con Tuấn chính thức có tên trong danh sách hộ nghèo của xã. Cái danh xưng ấy khiến nhiều người xấu hổ, nhưng với Tuấn, nó là minh chứng sống cho hoàn cảnh mà em phải vượt qua.
Từ khi học cấp 3, Tuấn đã trở thành trụ cột thực sự của gia đình. Ban ngày đi học, chiều về Tuấn ra đồng phụ bà con gặt lúa, bốc vác thuê ngoài bến xe, tối đến lại làm thêm trong một quán ăn nhỏ ở thị trấn. Có những ngày em chỉ ngủ 3-4 tiếng, người lúc nào cũng mỏi nhừ, mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ. Nhưng tuyệt nhiên, chưa một buổi học nào Tuấn đi trễ hay thiếu bài. Em luôn ngồi bàn đầu, nghe giảng chăm chú và ghi chép đầy đủ từng con chữ.
“Em không dám nghỉ học, vì nghỉ một ngày là tụt lại phía sau cả một bước dài,” Tuấn từng nói với cô giáo chủ nhiệm khi cô hỏi vì sao em gầy đi thấy rõ.
Cao trào – Những ngày tháng gian khổ nhất
Năm lớp 12 là một trong những giai đoạn khắc nghiệt nhất với Tuấn. Mẹ em chuyển sang giai đoạn suy thận nặng, tuần phải chạy thận 3 lần tại bệnh viện tỉnh. Mỗi lần đi viện là mất cả ngày, chi phí mỗi lần không dưới 1 triệu. Trong khi đó, tiền làm thêm của Tuấn chỉ đủ trang trải phần ăn uống hàng ngày, học phí thì nhà trường vẫn cố miễn giảm theo chế độ.
Đỉnh điểm có một tuần, mẹ Tuấn ngất xỉu tại nhà khi em đang đi làm thêm buổi tối. Lúc đó em đang rửa chén trong quán ăn, điện thoại rung liên tục trong túi. Về đến nhà, Tuấn thấy mẹ nằm co quắp trên sàn, mặt trắng bệch. Em vừa khóc, vừa bế mẹ chạy bộ gần 2 cây số ra trạm y tế xã, mồ hôi hòa với nước mắt. Sau hôm đó, em xin nghỉ làm ở quán – một quyết định đau đớn, vì đồng nghĩa với việc gia đình không còn bất kỳ nguồn thu nhập nào.
Không việc làm, Tuấn xoay qua bán vé số dạo buổi sáng sớm trước giờ học, trưa tranh thủ ăn mì tôm rồi làm bài ở thư viện. Những buổi học phụ đạo ôn thi đại học, nhiều lần em không dám đến vì không có tiền đóng góp. Cô giáo biết được, lẳng lặng miễn phí cho Tuấn, lại còn tìm học bổng tặng sách vở.
Thời điểm sát kỳ thi đại học, có hôm Tuấn chỉ ăn một bữa trong ngày. Bữa đó là gói mì sống bẻ vụn ăn cùng nước lọc. Trong sổ tay, em ghi rõ từng mục tiêu: “Đỗ NEU – 28 điểm trở lên. Mẹ khỏi bệnh. Có nhà lợp tôn mới.”
Một đêm tháng 5, trời mưa to gió lớn. Mái nhà lụp xụp bị tốc lên một mảng, nước mưa dột xuống ướt cả giường nơi mẹ em nằm. Tuấn lục lọi trong đêm, tìm nilon che cho mẹ rồi chạy đi mượn búa, cố gắng trèo lên mái lợp lại dù tay chân run lẩy bẩy. Trận sốt sau đó khiến em phải nghỉ học 3 ngày liền, nhưng vẫn cố gắng học bù gấp đôi để kịp theo bài.
Kỳ thi đại học năm ấy, Tuấn bước vào phòng thi với chiếc áo sơ mi cũ mẹ đã giặt và ủi sẵn từ mấy hôm trước. Em hoàn thành bài thi với niềm tin mãnh liệt: “Con sẽ không gục ngã đâu mẹ ơi.”
Thành công và ngày được xướng tên
Khi giấy báo trúng tuyển Đại học Kinh tế Quốc dân gửi về, cả xóm nghèo nô nức đến chúc mừng. Tuấn đạt 28,5 điểm – đứng đầu cụm thi toàn tỉnh. Em được đặc cách nhận học bổng toàn phần năm đầu tiên, và sau đó, liên tục nằm trong danh sách sinh viên xuất sắc, đi làm thêm để tự nuôi sống bản thân và gửi tiền về quê cho mẹ.
Cuộc sống ở Hà Nội cũng chẳng dễ dàng hơn, nhưng Tuấn đã rắn rỏi hơn nhiều. Em làm gia sư, giao hàng, chạy xe ôm công nghệ, có khi cả ngày không về phòng trọ chỉ để tiết kiệm tiền ăn. Những đêm thi cuối kỳ, em vừa học vừa canh đồng hồ để sáng sớm kịp giao đồ ăn cho khách. Có lần vì kiệt sức, Tuấn ngất xỉu ngay ở hành lang giảng đường. Nhưng sau mỗi lần ngã, em lại đứng dậy – lặng lẽ và bền bỉ.
5 năm sau, Tuấn chính thức tốt nghiệp loại xuất sắc, đứng đầu toàn khóa. Trong lễ tốt nghiệp, giữa khán phòng trang trọng, Tuấn được mời lên bục phát biểu với tư cách thủ khoa.
Em mặc chiếc áo cử nhân màu xanh tím than, bước lên bục trong tiếng vỗ tay rộn ràng. Mẹ em – người phụ nữ gầy gò trong bộ áo dài nâu giản dị – ngồi hàng ghế đầu, khóc nghẹn.
Tuấn nhìn quanh khán phòng, rồi nghẹn ngào nói:
“Hành trang của con khi bước vào giảng đường đại học là hai thứ: nỗ lực và cuốn sổ hộ nghèo. Một thứ nuôi dưỡng giấc mơ, và một thứ nhắc con không được phép bỏ cuộc. Con cảm ơn mẹ – người đã dạy con rằng, không có hoàn cảnh nào là tuyệt vọng nếu con người ta còn tin vào ngày mai.”
Khán phòng đứng dậy vỗ tay không ngớt. Những giảng viên già rơi nước mắt. Nhiều bạn bè cùng lớp ôm lấy Tuấn như ôm lấy một biểu tượng sống động nhất cho tinh thần vượt khó.
Câu chuyện của Tuấn không chỉ là hành trình của một cậu học trò nghèo thi đỗ đại học, mà là minh chứng rằng không có hoàn cảnh nào là rào cản vĩnh viễn, nếu con người ta có niềm tin, nghị lực và lòng biết ơn.
Ngày hôm ấy, tấm bằng đỏ chỉ là phần thưởng. Còn điều quý giá nhất Tuấn mang theo suốt đời – chính là lời mẹ dặn:
“Dù con đi đâu, làm gì, đừng bao giờ quên nơi mình đã bắt đầu.”