Tang lễ ông Bảy được tổ chức vào một ngày cuối mùa mưa, trời âm u suốt từ sáng. Dân trong xóm ai cũng đến viếng – một phần vì thương, một phần vì nể. Ông Bảy sống cả đời cương trực, không vợ con, không thân thích. Khi ông mất, người đứng ra lo hậu sự là anh Thức – cháu gọi ông bằng bác họ xa.
Lúc đoàn đưa tang chuẩn bị rước linh cữu ra nghĩa trang, chuyện lạ xảy ra.
Một con chó đen, lông xù, to gần bằng con bê con, không rõ từ đâu chạy tới, đứng chắn ngang đầu ngõ. Nó không sủa, không gầm, chỉ nhìn chằm chằm vào chiếc quan tài gỗ.
Cả đoàn người khựng lại.
Bà Tư – người giữ lễ – rùng mình:
– Điềm không lành đâu… chó đen chặn ngõ, ông chưa đi được.
Có người cố xua con chó đi, nó vẫn không nhúc nhích. Một ông già giơ gậy dọa, nó mới lùi lại vài bước rồi chui vào bụi chuối ven đường.
Tang lễ tiếp tục.
Nhưng chuyện lạ không dừng ở đó.
Tối hôm ấy, nhà tang lạnh như băng. Điện nhấp nháy, quạt ngừng chạy dù không mất điện. Chiếc đồng hồ treo tường đúng 11 giờ đêm thì rơi uỵch xuống, vỡ kính, kim đứng nguyên lúc 10 giờ 17 – đúng giờ ông Bảy trút hơi thở cuối cùng.
Sáng hôm sau, khi đang chuẩn bị đồ cúng, chị Hằng – em dâu anh Thức – phát hiện một mẩu giấy nhét trong hộp trà. Trên đó chỉ có hai dòng chữ nguệch ngoạc:
“Tôi chết oan. Người cầm tiền lo tang có tội.”
Ai cũng hoang mang.
– Hay ông Bảy… về báo mộng? – Có người thì thào.
Thức tái mặt. Anh nói không lấy gì của ông, chỉ làm đúng bổn phận.
Mọi người bán tín bán nghi.
Sau đám tang ba ngày, con chó đen lại xuất hiện. Lần này, nó ngồi trước cổng nhà Thức, không sủa, không động đậy. Từ sáng đến tối. Đến mức hàng xóm phải mang cơm ra cho nó ăn.
Vợ Thức khóc lóc, đòi đưa con về ngoại:
– Em chịu hết nổi rồi! Cái gì cũng trùng hợp quá đáng!
Thức cắn răng chịu đựng. Nhưng đến hôm thứ năm, anh không chịu nổi nữa. Anh đem theo đèn pin, rình theo con chó lúc nửa đêm.
Nó đi không nhanh, cũng chẳng chậm – cứ như cố tình để anh theo sau. Cuối cùng, nó dẫn anh ra một căn chòi bỏ hoang giữa đồng. Thức đẩy cửa vào. Mùi ẩm mốc xộc lên.
Anh rọi đèn, và sững người.
Trong góc chòi, là một cái rương gỗ. Bên trong là… tiền. Rất nhiều tiền. Và một phong bì có đề:
“Dành cho kẻ không tham.”
Thức run tay mở ra. Là thư viết tay của ông Bảy.
“Nếu cháu đọc được thư này, nghĩa là ta đã không nhầm người. Đây là số tiền ta để dành suốt đời. Ta không tin ngân hàng, càng không tin họ hàng gần xa chỉ biết đến lúc ta chết. Nếu cháu cư xử đàng hoàng, tự khắc trời cho cháu biết nơi giấu tiền.”
“Còn nếu cháu tham, giấu diếm, ta để con Mực theo ám cháu cả đời.”
Sáng hôm sau, người trong xóm thấy Thức dắt theo con chó đen về, vừa đi vừa cười như điên.
Anh làm đúng như thư dặn: đem phần lớn số tiền xây nhà từ thiện trong xóm, phần còn lại sửa lại căn nhà cũ của ông Bảy, đặt di ảnh ông ngay ngắn.
Người ta đồn, từ đó trở đi, không còn thấy con chó đen đâu nữa.
Và ai cũng nhớ mãi câu nói của ông thầy cúng hôm đám tang:
– Có những oan hồn không phải là hồn người. Mà là lương tâm của kẻ sống.