Ông Năm năm nay bảy mươi, lưng đã còng, mắt đã mờ. Mảnh đất 500m² cha ông để lại, ông gầy dựng suốt nửa đời người. Vườn tược, cây trái, từng góc đất đều gắn với máu và mồ hôi. Nhưng giờ, thứ ông lo nhất không phải là đất, mà là hai thằng con: Tùng và Dũng.
Tùng – con trưởng – làm ăn xa, tính toán chặt chẽ, khô khan. Dũng – con út – quanh quẩn ở quê, bốc đồng, phóng túng. Hai đứa từ nhỏ đã hay hơn thua, giờ lớn càng khó nhịn nhau. Ông sợ, nếu mình nhắm mắt xuôi tay mà không dàn xếp, tụi nó sẽ vì mảnh đất mà đánh nhau tơi tả.
Một buổi chiều đầu đông, ông gọi cả hai về. Mâm cơm cúng mẹ chúng còn bốc khói, ông chống gậy, chỉ vào tấm bản đồ tự tay vẽ:
“Đất cha mẹ để lại không nhiều. Cha không muốn các con vì nó mà thành kẻ thù. Hôm nay chia luôn. Tùng chia, Dũng chọn.”
Tùng gật đầu, cầm thước đo đạc. Anh vạch hai phần vuông vức, mỗi phần 250m², chia đúng giữa, mặt tiền, giếng nước, luống đất, cái gì cũng đều nhau.
Dũng nhìn một lúc lâu, rồi chỉ vào phần phía tây, giọng hơi gắt:
“Tôi chọn phần này.”
Tưởng đâu từ đó yên ổn. Ai ngờ, từ ngày có đất riêng, mỗi người một tính. Tùng làm vườn, nuôi cá, xây tường cao ngất. Dũng thì dọn đất làm quán nhậu, kéo người lạ tới hát hò, ăn uống tới khuya. Hàng xóm than phiền, khách khứa làm ồn, rác thải bừa bãi.
Tùng tức, kiện xã, bắt Dũng dẹp quán. Dũng không chịu, cãi nhau, thề sống thề chết không nhường anh. Hai anh em từ mặt nhau, ngày Tết cũng không thèm qua lại.
Một năm sau, Dũng nợ ngập đầu vì thua cá độ bóng đá. Mảnh đất phía tây trở thành món hàng cầm cố. Không lâu sau, phần đất ấy lọt vào tay một ông chủ nhà máy. Người ta phá hết vườn tược, xây xưởng cơ khí, tiếng máy búa đinh tai suốt ngày đêm.
Tùng phát điên. Tường nhà anh nứt toác vì máy móc rung. Vườn cây anh trồng chết héo vì khói bụi. Anh ôm đơn kiện, đòi quyền ưu tiên mua lại đất theo luật hàng xóm. Nhưng ông chủ nhà máy giàu có, luồn cúi khắp nơi. Tùng kiện ba lần, thua cả ba.
Giữa lúc mọi thứ rối như mớ bòng bong, ông Năm bệnh nặng, nằm liệt giường. Tùng ít về thăm. Dũng càng không dám bén mảng. Người ta bảo, ông cụ buồn, khóc âm thầm mỗi đêm.
Một hôm trời mưa lạnh, ông Năm gọi hai anh em tới. Giọng ông yếu như sợi chỉ:
“Cha hỏi… Hai con còn coi nhau là anh em không?”
Cả hai im lặng. Tiếng mưa rơi tí tách ngoài hiên nghe càng lạnh buốt.
Ông Năm thở ra, mắt đã mờ đục:
“Nếu không còn coi nhau là máu mủ, thì thôi. Nhưng nếu còn, thì… cứu lấy mảnh đất này, cứu lấy nhau.”
Nói xong, ông trút hơi thở cuối cùng.
Tang lễ ông Năm, trời mưa suốt ba ngày. Hai anh em đứng hai đầu linh cữu, mặt lạnh tanh. Không ai nói với ai một lời.
Nhưng đúng đêm cuối cùng, giữa cơn mưa tầm tã, Tùng bất ngờ tìm đến chỗ Dũng trọ. Anh đứng ngoài cửa, ướt sũng.
“Mày muốn lấy lại phần đất không?” – Tùng hỏi thẳng.
Dũng ngẩn ra, rồi gật.
Tùng ném cho Dũng một tập hồ sơ:
“Hợp đồng mua lại. Tao đã thế chấp đất của tao, vay tiền chuộc phần đất mày bán. Nhưng điều kiện là mày bán hết cho tao. Sau này, đất này không còn chia. Tao giữ, lo cho mẹ con mày đủ ăn, đủ sống. Mày… biến khỏi đây. Đừng bao giờ quay lại.”
Dũng chết lặng.
Nếu ký vào, anh mất trắng mọi thứ. Nếu không, anh sẽ nợ nần cả đời, rồi cũng trắng tay.
Giữa đêm mưa, dưới ánh đèn đường lờ mờ, Dũng cầm bút. Tay anh run bần bật.
Cuối cùng, anh ký.
Khi chữ ký khô mực, Tùng giật tờ giấy, quay lưng đi, không nói thêm lời nào.
Từ đó, Dũng bỏ xứ. Người ta nghe nói anh vào Nam, làm thuê cuốc mướn. Tùng ở lại, gom cả 500m² đất, xây dựng lại khu vườn, dựng tượng ông Năm giữa sân. Nhưng mỗi năm giỗ cha, mâm cơm chỉ có mình anh, lặng lẽ châm ba nén hương trước gió.
Mảnh đất còn đó. Người thì đã mất nhau từ ngày chia đôi.