gày 30/4/1975, xe tăng mang số hiệu 390 của Lữ đoàn 203, Quân đoàn 2, đã húc đổ cánh cổng chính của Dinh Độc Lập, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền Sài Gòn. Cùng với xe tăng số hiệu 843 cũng của Lữ đoàn 203, đây là hai chiếc xe tăng huyền thoại đã đi vào lịch sử của Chiến dịch Hồ Chí Minh, trở thành một trong những biểu tượng của chiến thắng trong hàng triệu trái tim người Việt Nam.
“Đường cua đẹp nhất trong cuộc đời người lính xe tăng”
Tròn 50 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về thời khắc húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30/4/1975 vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí ba cựu chiến binh của xe tăng 390. Bao hồi ức về đồng đội, về một thời chiến đấu oanh liệt vẫn sống động trong câu chuyện của họ.
Những người lính trên xe tăng 390 ngày ấy gồm có: Trung úy Vũ Đăng Toàn, Chính trị viên đại đội kiêm Trưởng xe; Trung sĩ Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ số 1; Thiếu úy Lê Văn Phượng, Phó đại đội trưởng kỹ thuật kiêm pháo thủ số 2; Trung sĩ Nguyễn Văn Tập, lái xe. Họ thuộc Đại đội tăng 4, Tiểu đoàn tăng 1, Lữ đoàn Xe tăng 203 (Quân đoàn 2).
Bốn thành viên của kíp xe tăng 390 trong một lần thăm Dinh Độc Lập. (Ảnh do nhân vật cung cấp)
Ông Vũ Đăng Toàn, trưởng xe tăng 390 cho biết, hơn 10 giờ sáng ngày 30/4/1975, xe tăng 390 và xe tăng 843 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy là một trong những chiếc xe sớm nhất hướng về Dinh Độc Lập. Xe tăng 390 chạy trên đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), còn xe tăng 843 của Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chạy trên Đại lộ Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), xông thẳng vào Dinh Độc Lập. Tuy nhiên, xe tăng 843 húc vào cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị kẹt tại đó. Vừa lúc xe 390 cũng đến cổng Dinh, lái xe Nguyễn Văn Tập quay sang hỏi Trưởng xe: “Thế nào anh Toàn?” Vũ Đăng Toàn ra lệnh: “Lập tức đâm thẳng vào”. Xe tăng 390 chuyển ngay hướng lao tới, húc đổ cổng chính của Dinh Độc Lập, tiến vào trong.
Ông Vũ Đăng Toàn cho rằng, trong cuộc đời chiến đấu của mình, ông rất may mắn có cơ hội cùng chiếc xe tăng 390 thực hiện nhiệm vụ lịch sử, trực tiếp tấn công vào sào huyệt cuối cùng của chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Ngay sau khi húc đổ cổng Dinh, ông đã nhảy xuống xe, cầm súng AK, yểm trợ Đại đội trưởng Bùi Quang Thận lên cắm cờ giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập. “Lá cờ được cắm càng nhanh bao nhiêu thì đồng bào, đồng chí của mình đỡ đổ máu bấy nhiêu. Đến lúc ấy, tôi thực sự biết chúng ta đã chiến thắng, miền nam được giải phóng, Tổ quốc thống nhất, bắc nam sum họp một nhà. Sau mấy chục năm chiến tranh, bây giờ mình sẽ sớm được về với gia đình, quê hương”, ông chia sẻ.
Ôn lại kỷ niệm khó quên ngày đó, lái xe Nguyễn Văn Tập tự hào nói: “Trong tháng ngày làm lính xe tăng, tôi đã trải qua nhiều vất vả, gian nan ở vị trí lái xe và chiến đấu trên chiến trường ở miền nam. Nhưng tôi may mắn có được đường cua đẹp nhất trong cuộc đời mình, đó là lúc bẻ lái xe tăng 390 húc vào cổng chính Dinh Độc Lập ở thời khắc lịch sử của dân tộc”.
Ông chia sẻ: “Lúc đó, tôi chỉ cố gắng làm sao hoàn thành được nhiệm vụ diệt địch, chiếm lĩnh mục tiêu. Khi đứng ở sân Dinh Độc Lập và biết quân ta đã giành được chiến thắng, trong tôi trào lên cảm giác vinh dự, tự hào. Khi lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, cũng là lúc người dân ở Sài Gòn đổ ra đường phố, mừng chiến thắng. Còn mấy anh em chúng tôi ôm nhau trong niềm vui quá lớn”.
“Chiến dịch mang tên Bác Hồ có nghĩa là quyết chiến rồi”
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bốn thành viên của kíp xe tăng 390 đều vào bộ đội và gia nhập lực lượng tăng thiết giáp ở độ tuổi rất trẻ, mười chín đôi mươi. Vũ Đăng Toàn và Lê Văn Phương vào nhập ngũ năm 1965, còn Nguyễn Văn Tập và Ngô Sỹ Nguyên muộn hơn (tháng 6/1970 và tháng 12/1971), rồi trở thành chiến sĩ của Lữ đoàn Xe tăng 203, chiến đấu tại các chiến trường ác liệt như Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Chuyện nhập ngũ của ông Nguyễn Văn Tập khá cảm động. Năm 1970, khi đang theo học tại Trường Cơ khí 2 (Bộ Công nghiệp nặng), vì gia đình đã có hai anh ruột đang trong quân ngũ nên ông thuộc diện không phải đi bộ đội. Nhưng đó cũng là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ bước sang giai đoạn ác liệt nhất, đặc biệt là ở chiến trường miền nam. Cả nước phát động phong trào học sinh, sinh viên các trường đại học và trung học chuyên nghiệp “xếp bút nghiên lên đường ra trận”. Với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ, ông viết đơn tình nguyện xin lãnh đạo trường nhập ngũ và lên đường vào tháng 6/1970.
Sau khi huấn luyện bộ binh, ông Tập được chọn đào tạo lái xe, phục vụ trong lực lượng tăng thiết giáp. Cùng đồng đội có mặt ở những chiến trường ác liệt như Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Lào, ông từng bị thương trong trận đánh địch ở tây nam thành phố Huế. Sau khi bình phục, ông lại tiếp tục tham gia chiến đấu.
Chiến dịch mang tên Bác Hồ có nghĩa là quyết chiến rồi, nên mình phải quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ bằng mọi giá, dù gian khổ, khó khăn và có thể hy sinh.Lái xe Nguyễn Văn Tập
Ngày 26/4/1975, lực lượng xe tăng Lữ đoàn 203 nhận được lệnh tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.
“Với chúng tôi, chiến dịch mang tên Bác Hồ có nghĩa là quyết chiến rồi, nên mình phải quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ bằng mọi giá, dù gian khổ, khó khăn và có thể hy sinh. Không phải chỉ mình tôi nghĩ thế, mà khí thế của anh em trong đơn vị lúc ấy đều dâng cao”, ông Tập nhớ lại.
Là một trong những mũi tiến công chủ lực, đánh vào Sài Gòn, Lữ đoàn Xe tăng 203 đã thể hiện tinh thần “thần tốc, táo bạo, đã ra quân là đánh thắng”.
Quân Giải phóng đánh chiếm trường Thiết giáp của địch tại căn cứ Nước Trong. (Ảnh: TTXVN)
Trên đường tiến quân, những người lính Lữ đoàn 203, trong đó có kíp xe tăng 390, đã phải đương đầu với những trận chiến đấu khốc liệt. “Chúng tôi được giao nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ Nước Trong, mục tiêu chính là Trường sĩ quan tăng thiết giáp của địch ở khu vực Long Thành, Đồng Nai. Cuộc chiến đã diễn ra vô cùng ác liệt, nhiều chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, nhưng cuối cùng ta đã giành thắng lợi. Anh em đã chọc thủng được phòng tuyến vững chắc của địch, tạo điều kiện cho các lực lượng quân giải phóng tiến về Sài Gòn thuận lợi”, ông Tập kể lại. Đây cũng là trận đánh then chốt mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh của Lữ đoàn 203.
Sáng 30/4/1975, trong trận đánh ở đầu cầu Sài Gòn để mở đường tiến vào trong nội đô, Lữ đoàn 203 đụng độ lực lượng địch rất mạnh. Chúng bố trí 14 xe tăng và thiết giáp cùng bộ binh dàn ra giữ cầu, kết hợp hỏa lực của tàu chiến bắn mạnh từ dưới sông lên, máy bay trút bom từ trên không xuống. Một số xe tăng của ta đi đầu trúng đạn, bốc cháy, đội hình thọc sâu phải dừng lại. Nhưng với quyết tâm sắt đá, ý chí kiên quyết tiến công của quân ta, cuối cùng địch đã phải tháo chạy.
“Đại úy Ngô Văn Nhỡ, Tiểu đoàn trưởng của chúng tôi hy sinh trong trận đánh này, ngay trước cửa ngõ Sài Gòn. Anh ngã xuống khi chỉ cách giờ chiến thắng khoảng 1 tiếng đồng hồ. Bởi thế, vào giờ khắc chiến thắng, niềm vui cũng trào dâng, nhưng nỗi thương tiếc đồng đội cũng đau đớn vô cùng”, ông Tập nghẹn ngào nói.
Còn với pháo thủ Ngô Sỹ Nguyên, nhớ lại phút giây chiến thắng ở giữa Dinh Độc Lập, ông như còn rưng rưng: “Không khí lúc ấy rất náo nhiệt. Ngoài đường, nhân dân đông nghịt, cờ hoa rực rỡ vây quanh khu vực Dinh. Nhiều người ôm nhau, không phân biệt nam bắc, bật khóc vì ‘Hòa bình rồi, sống rồi, sắp được về với gia đình, về với mẹ’. Có những người bà, người mẹ rơi nước mắt. Khi đó, tôi mới hơn 23 tuổi, cảm thấy thật vinh dự vì trong giờ phút vinh quang đó mình là một trong những người có mặt sớm nhất. Đó cũng là kỷ niệm sâu sắc nhất của đời lính mà không phải ai cũng may mắn có được”.
Ông Ngô Sỹ Nguyên cũng khẳng định: “Chiến công của chúng tôi không chỉ riêng lực lượng tăng thiết giáp mà là chiến công chung của các binh đoàn, quân đoàn, các lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích và quần chúng nhân dân nổi dậy… Thật vinh dự khi được đóng góp một phần nhỏ bé trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đưa đất nước đến ngày toàn thắng”.
Sau ngày nước nhà thống nhất, trong kíp xe tăng 390, ông Tập là người ra quân sớm nhất, vào tháng 7 năm 1976. Ông trở về quê hương Hải Dương, gắn bó với công việc đồng áng.
Ba người còn lại là các ông Vũ Đăng Toàn, Ngô Sỹ Nguyên và Lê Văn Phượng vẫn tiếp tục phục vụ trong lực lượng tăng thiết giáp. Bản thân ông Ngô Sỹ Nguyên tiếp tục gắn bó với xe tăng 390 một thời gian dài, tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới tây nam và biên giới phía bắc. “Xe tăng 390 như một người bạn thân, gắn bó như máu thịt với mình. Lớp vỏ thép dày của nó đã bảo vệ tôi và đồng đội qua bao trận chiến rất ác liệt”, ông Nguyên chia sẻ.
Tới năm 1982, ông Ngô Sỹ Nguyên mới ra quân, sau vài năm thì chuyển sang công tác tại Công ty Xe bus Hà Nội cho tới ngày nghỉ hưu.
Từ năm 1999, xe tăng 390 được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Tăng thiết giáp, năm 2012 đã được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận là Bảo vật quốc gia. Được biết, tới đây, xe tăng bảo vật quốc gia 390 sẽ được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.
Biết thông tin này, cựu pháo thủ Ngô Sỹ Nguyên rất phấn khởi, bởi theo ông, đây là hiện vật lịch sử ghi dấu chiến công to lớn của quân và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Với không gian trưng bày tại Bảo tàng Quân sự Việt Nam, hình ảnh xe tăng 390 sẽ góp phần lan tỏa, giáo dục lòng yêu nước, tình yêu Tổ quốc tới người dân, đặc biệt là các bạn trẻ, để dấu ấn một thời chiến đấu anh dũng của bộ đội ta không bị lãng quên.
Xe tăng 390 trưng bày tại Bảo tàng Tăng thiết giáp.
20 năm sau chiến thắng lịch sử năm 1975, ba thành viên của kíp xe tăng 390 gồm Vũ Đăng Toàn, Nguyễn Văn Tập và Lê Văn Phượng đã cùng trở lại Dinh Độc Lập nhân kỷ niệm ngày thống nhất đất nước. Cuộc hội ngộ có đầy đủ 4 thành viên tại Dinh Độc Lập diễn ra muộn hơn, vào dịp kỷ niệm tròn 30 năm sau ngày giải phóng miền nam.
Giờ đây, kíp xe tăng 390 chỉ còn lại ba trong số bốn thành viên, ông Lê Văn Phượng qua đời năm 2016. Họ đều đã bước vào độ tuổi xưa nay hiếm. Cuối tháng 3 năm nay, hai cựu binh Vũ Đăng Toàn và Nguyễn Văn Tập đã trở lại thăm chiến trường xưa. Chuyến đi trải dài từ các chiến trường Trị Thiên Huế tới Đà Nẵng, những vùng đất gắn liền với những trận chiến hào hùng năm xưa như A Sầu, A Lưới, A Sò…
Có mặt ở vùng cao A Lưới, chứng kiến mảnh đất đầy bom đạn xưa nay đã nhiều đổi thay, ông Tập vẫn bùi ngùi nhớ lại những trận đánh, những đồng đội đã hy sinh và không khỏi xúc động khi đồng bào ở đó vẫn có người còn nhớ mình.
Ba thành viên còn lại của kíp xe tăng 390 góp mặt trong một chương trình kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước tại Hà Nội vào tháng 4/2025. Từ trái sang: các ông Vũ Đăng Toàn, Ngô Sỹ Nguyên, Nguyễn Văn Tập (Ảnh SƠN TÙNG)
“50 năm sau Ngày Chiến thắng, đất nước ta đã phát triển mạnh mẽ. Trở lại những địa điểm chiến đấu ngày xưa, tôi cảm thấy thật hạnh phúc, vì trong chiến tranh, mình đã hoàn thành nhiệm vụ, góp phần để đất nước có hòa bình, độc lập, thống nhất”, ông Tập tâm sự.
Trong cuộc sống thường ngày, sau khi mất liên lạc một thời gian, các thành viên của kíp xe tăng 390 đã kết nối trở lại và gắn bó, thân thiết hơn xưa. Khi ông Lê Văn Phượng mất, những người đồng đội xe tăng 390 đã túc trực ba ngày trong đám tang. Kể từ đó, trong họ luôn có cảm giác mất mát, trống vắng khi người đồng đội cũ từng gắn bó vào sinh ra tử không còn nữa.
Những ngày tháng 4 này, ba thành viên của kíp xe tăng 390 đang có mặt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến, các ông sẽ tham dự Đại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước vào sáng 30/4 tới, để được sống lại không khí hào hùng của những tháng ngày thần tốc của Chiến dịch Hồ Chí Minh tròn nửa thế kỷ trước.
Ngày 30/4/1975, kíp xe tăng 390 của Lữ đoàn 203 gồm: Trung úy Vũ Đăng Toàn, Chính trị viên đại đội kiêm Trưởng xe; Trung sĩ Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ số 1; Thiếu úy Lê Văn Phượng, Phó đại đội trưởng kỹ thuật kiêm pháo thủ số 2; Trung sĩ Nguyễn Văn Tập, lái xe thuộc Đại đội tăng 4, Tiểu đoàn tăng 1, Lữ đoàn xe tăng 203 (Quân đoàn 2) đã húc đổ cổng chính của Dinh Độc Lập.
Hiện nay, kíp xe tăng 390 chỉ còn lại 3 người do cựu pháo thủ số 2 Lê Văn Phượng đã mất. Các ông Vũ Đăng Toàn, Nguyễn Văn Tập đang sống cùng gia đình ở Hải Dương, còn ông Ngô Sỹ Nguyên sống cùng gia đình tại Hà Nội.
50 năm đã trôi qua, nhưng thời khắc lịch sử xe tăng 390 húc đổ cổng Dinh Độc Lập vẫn vẹn nguyên như ngày hôm qua đối với pháo thủ Ngô Sỹ Nguyên.
Đúng 11 giờ ngày 30.4.1975, xe tăng T-54 số hiệu 843 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận làm trưởng xe đã húc vào cổng phụ của Dinh Độc Lập, sau đó bị chết máy. Xe tăng T-59 số hiệu 390 đi sau lập tức xông lên húc đổ cánh cổng chính. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận nhảy ra khỏi xe và chạy lên nóc Dinh Độc Lập cắm lá cờ của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là sự kiện đánh dấu giờ phút thiêng liêng của dân tộc, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Pháo thủ số 1 xe tăng 390 Ngô Sỹ Nguyên
ẢNH: ĐÌNH HUY
50 năm đã trôi qua nhưng những ký ức đó vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí pháo thủ số 1 xe tăng 390 Ngô Sỹ Nguyên (quê Nghệ An).
Mở tủ lấy tập tài liệu là những hình ảnh thời còn chiến đấu đưa cho chúng tôi, ông Nguyên kể, đây là những khoảnh khắc vinh dự nhất trong cuộc đời mình. Những câu nói rành rọt, rõ ràng ngỡ như câu chuyện vừa mới hôm qua.
Trận chiến ác liệt trên đường tiến quân vào Sài Gòn
Tháng 8.1971, chàng thanh niên Ngô Sỹ Nguyên tròn 18 tuổi, xung phong lên đường nhập ngũ với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai…”. Sau thời gian huấn luyện bộ binh khoảng 3 tháng, do thể hiện được biệt tài bắn súng giỏi nên ông được nhận về đơn vị Tăng thiết giáp, đảm nhiệm vị trí pháo thủ xe tăng T-59, số hiệu 390 (Đại đội tăng 4, Tiểu đoàn tăng 1, Lữ đoàn Xe tăng 203, Quân đoàn 2).
Cuối năm 1971, sau khi đã hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản, ông Nguyên nhận nhiệm vụ vào Nam chiến đấu. Những ngày đầu, đơn vị chủ yếu đóng quân, tham gia chiến đấu tại khu vực biên giới Việt Nam – Lào với mục tiêu giải phóng Huế. Tại đây những trận chiến ác liệt đã xảy ra khi địch rải bom để chặn đường tiến công của ta. Quãng đường hành quân nhiều tháng của đơn vị ông Nguyên từ Quảng Bình – nước Lào – Huế đã hy sinh 10 chiến sĩ.
Hành quân từ Quảng Bình đến Huế, 10 đồng đội của tôi hy sinh
Sau khi tập kết tại A Lưới (Huế), đơn vị của ông Nguyên tiếp tục huấn luyện, chuẩn bị tốt nhất cho những chiến dịch sắp tới.
Ngày 15.3.1975, Lữ đoàn Xe tăng 203 nhận lệnh bỏ lại căn cứ, xuất phát từ A Lưới (Huế) đi theo QL14B, TT.Khe Tre (H.Nam Đông, Huế) xuống đánh trận Núi Bông, Núi Nghệ và Mỏ Tàu. Trên chiếc xe tăng 390 khi đó có trung úy Vũ Đăng Toàn, Chính trị viên đại đội; lái xe là trung sĩ Nguyễn Văn Tập; pháo thủ số 1 là trung sĩ Ngô Sỹ Nguyên; thiếu úy Lê Văn Phượng, Phó đại đội trưởng kỹ thuật kiêm pháo thủ số 2.
Ông Nguyên nhớ lại những trận chiến trên đường tiến quân vào Sài Gòn
ẢNH: ĐÌNH HUY
Đến ngày 25.3.1975, đơn vị đã tiến vào giải phóng Huế, sau đó được lệnh ra cửa Thuận An để chặn đường rút chạy của quân địch. Đêm 29.3.1975, đơn vị ông Nguyên tiếp tục nhận lệnh vượt đèo Hải Vân, tiến vào giải phóng Đà Nẵng cùng các cánh quân khác. Trong 1 thời gian ngắn, chúng ta tiêu diệt hàng vạn quân địch và làm chủ các căn cứ quân sự khiến địch vô cùng hoang mang.
“Tại Đà Nẵng, chúng tôi bổ sung dầu, mỡ nước cho xe tăng, chiến sĩ Bùi Quang Thận chuyển từ xe tăng 386 sang xe tăng 843. Sau đó, chúng tôi hành quân đường bộ vào Sài Gòn”, ông Nguyên kể.
Trên đường tiến vào Sài Gòn, đơn vị tiếp tục gặp phải những căn cứ quân sự của địch cản bước tiến. Khó khăn và ác liệt nhất là trận đánh vào căn cứ Nước Trong (Long Thành, Đồng Nai). Đây là cụm căn cứ quân sự quan trọng của địch, gồm: trường thiết giáp, trường bộ binh và trung tâm huấn luyện biệt kích với lực lượng khoảng gần 4.000 lính, cùng khoảng 40 xe tăng, thiết giáp có thể chi viện cho nhau.
Ông kể, địch bố trí, xây dựng căn cứ trong rừng cao su kín, dù ta đã dùng 2 tiểu đoàn tấn công nhưng không thành. Đánh trận này, nhiều chiến sĩ hy sinh, xe cháy, nhưng tinh thần của ta lên cao, người này ngã xuống, người khác lại tiến lên rất dũng cảm.
Tinh thần của ta lên cao, người này ngã xuống, người khác lại tiến lên rất dũng cảm
Sáng 28.4, xe tăng 390 vừa hành quân đến trận địa thì được lệnh lập tức tham gia chiến đấu. Xem qua địa hình thấy địch trong rừng cao su bắn ra nhưng ta không nhìn thấy địch để tấn công lại, ông Nguyên đề nghị đồng đội bắn lên lưng chừng cây, mảnh đạn nổ ra như quả bom văng xuống căn cứ khiến chiếc xe tăng của địch lộ ra. Ngay lập tức, trung sĩ Ngô Sỹ Nguyên ra hiệu cho pháo thủ số 2 thay đạn nổ bằng đạn xuyên giáp, hướng thẳng xe tăng địch mà bắn.
Sau đó, xe tăng 390 cùng nhiều xe tăng khác liên tục khai hỏa tiêu diệt, áp chế hỏa lực của địch, yểm trợ cho bộ binh chiếm lĩnh trận địa. Đầu giờ chiều cùng ngày, Nước Trong được giải phóng đã tạo điều kiện cho quân đội ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Đánh xong trận này, xe tăng 390 dính nhiều “vết thương” nhưng may mắn mọi người đều an toàn.
Những chiến sĩ hy sinh cho thắng lợi cuối cùng
Sau trận Nước Trong, đến sáng 30.4, Tiểu đoàn tăng 1 do ông Ngô Văn Nhỡ làm Tiểu đoàn trưởng được giao nhiệm vụ chủ công mở đường vào Sài Gòn, Đại đội 3 có nhiệm vụ cắm cờ trên Dinh Độc Lập.
Mũi thọc sâu bắt đầu đánh từ tổng kho Long Bình, qua cầu Đồng Nai, ngã ba Thủ Đức, ngã ba Thủ Dầu Một, đến cầu Sài Gòn. Tại cầu Sài Gòn – lá chắn cuối cùng của quân địch tại cửa ngõ Sài Gòn, địch chống trả rất quyết liệt khiến quân ta hy sinh nhiều, trong đó hình ảnh tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ anh dũng hy sinh trước giờ toàn thắng của dân tộc khiến ông Nguyên không bao giờ quên.
“Cầu Sài Gòn kết cấu hình vòm nên địch rất dễ quan sát đội hình của ta, trong khi ta rất khó quan sát được địch, nhất là hệ thống phòng ngự của chúng ở mặt cầu bên kia. Chúng sử dụng thùng phuy, bao cát xếp thành các vật chướng ngại hình dích dắc rồi ở bên trong dùng hỏa lực mạnh bắn ra khiến nhiều xe tăng của ta bị bắn cháy.
Thấy tình hình khó khăn, Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ bật cửa xe, nhô hẳn người lên để quan sát địch và chỉ huy đơn vị vượt cầu. Trong làn mưa đạn, người chỉ huy hiên ngang hô vang mệnh lệnh “tiến lên!”. Khi mặt cầu im tiếng súng, đồng đội mới biết người Tiểu đoàn trưởng đã anh dũng hy sinh ngay trên tháp pháo xe tăng”, ông Nguyên nhớ lại.
Vượt qua cầu Sài Gòn, xe tăng 390 tiến thẳng đến ngã tư Hàng Xanh. Tại đây, ông Nguyên và đồng đội phát hiện 2 xe thiết giáp M-113 đã đặt sẵn để cản bước tiến. Phát hiện địch phản kích, ông Vũ Đăng Toàn hô lớn “Nguyên, Nguyên… mục tiêu!”. Lập tức, ông Nguyên ngắm bắn. Sau tiếng nổ, viên đạn pháo găm thẳng vào chiếc xe M-113, lửa bốc lên ngùn ngụt. Chiếc xe M-113 thứ 2 của địch cũng chung số phận khi ông Nguyên bắn phát thứ 2.
Mệnh lệnh “đâm thẳng” cổng chính Dinh Độc Lập
Mải mê chiến đấu với quân địch, chúng tôi không biết mình đã qua mấy ngã tư Sài Gòn
“Dựa vào tấm bản đồ của Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng, chúng tôi học thuộc qua cầu Thị Nghè rẽ trái qua 7 ngã tư là Dinh Độc Lập. Thế nhưng vì quá mải mê chiến đấu với quân địch, khói thuốc súng bốc lên nghi ngút, chúng tôi không biết mình đã qua mấy ngã tư Sài Gòn”, ông Nguyên tiết lộ.
Khoảnh khắc 2 chiếc xe tăng 390 và 843 tiến vào Dinh Độc Lập được nữ phóng viên người Pháp ghi lại
ẢNH: NVCC
Xe tăng 390 tiếp tục tiến vào trung tâm, đến đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (tên gọi ngày nay) thì Dinh Độc Lập dần hiện ra. Lúc này, ông Nguyên và đồng đội gặp xe tăng 843 của Đại đội trưởng Bùi Quang Thận.
Xe tăng 843 lao vào cổng phụ Dinh Độc Lập thì dừng lại. Lúc này lái xe tăng 390 hỏi trưởng xe Vũ Đăng Toàn “làm thế nào” thì nhận được lệnh “đâm thẳng vào”. Lập tức, xe tăng 390 húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, tiến thẳng vào sân.
“Cú đâm này chính là sức mạnh, là khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Phút giây này chúng tôi không sợ hy sinh mà lao thẳng vào để mở cánh cửa giống như mở ra một trận đánh để đại quân phía sau tiến lên, tiêu diệt cơ quan đầu não cuối cùng của địch”, ông Nguyên nói.
Cú đâm này là khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam
Ông Nguyên cũng nhớ như in khi cánh cổng Dinh Độc Lập bị húc đổ, Đại đội trưởng Bùi Quang Thận dũng cảm, cầm cờ (trên người không mang súng) nhảy khỏi xe tăng 843 chạy sang phía xe tăng 390, đến tiền sảnh của Dinh Độc Lập thì dừng lại.
Khi xe tăng 390 dừng lại, trưởng xe Vũ Đăng Toàn nhảy xuống, chạy theo Đại đội trưởng Bùi Quang Thận tiến vào Dinh Độc Lập. Còn ông Nguyên lấy khẩu AK trong tháp pháo lao ra khỏi xe, chạy vào Dinh yểm trợ.
Ông Ngô Sỹ Nguyên trên chiếc xe tăng 390
ẢNH: NVCC
Vào đến Dinh Độc Lập, trung úy Vũ Đăng Toàn cùng các đồng đội đưa tất cả nội các của Dương Văn Minh vào trong phòng lớn, ông Nguyên đứng gác ở cửa phòng không cho ai ra vào; lái xe Nguyễn Văn Tập ở lại giữ xe tăng, thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi trong xe giữ khẩu 12 ly 7 chĩa lên phía lá cờ trên nóc Dinh Độc Lập để yểm trợ cho Đại đội trưởng Bùi Quang Thận cắm cờ.
“Ít phút sau, có 3 chiến sĩ bộ binh của ta mang súng ngắn đi vào phòng, tiếp đó, Chính ủy Bùi Văn Tùng đến. Khi Chính ủy Tùng bước vào, ông Tổng thống Dương Văn Minh đứng dậy và cúi người nói: “Chúng tôi đang chờ các ông vào để bàn giao”. Chính ủy Tùng đáp lại dứt khoát: “Các ông là những người bại trận, còn gì để mà bàn giao, chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Sau đó, Dương Văn Minh được ông Phạm Xuân Thệ, Bùi Văn Tùng cùng các chiến sĩ áp giải đến đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng”, pháo thủ Ngô Sỹ Nguyên kể tiếp.
Xe tăng 390 trong sân Dinh Độc Lập
ẢNH: NVCC
Sau thời khắc lịch sử khoảng 1 tiếng, Đại đội 4 của ông Nguyên nhận lệnh ra cảng Bạch Đằng để bảo vệ cảng, kho hàng, đề phòng địch phản kích. Ở đây khoảng 4 đến 5 ngày, đơn vị ông rút về tổng kho Long Bình, xây dựng đơn vị, sửa chữa xe, bổ sung đạn dược… sẵn sàng chiến đấu.
“Chúng tôi may mắn được lịch sử ưu ái”
50 năm đã trôi qua, trong ký ức của người pháo thủ năm ấy chẳng bao giờ quên khoảnh khắc trong ngày đất nước thống nhất khi các em nhỏ, thanh niên, cụ già… xếp hàng dọc hai bên đường Sài Gòn hoan hô “Anh giải phóng quân”. Sau đó là những đoàn diễu hành, ủng hộ của phụ nữ, thanh niên, sinh viên với những dòng khẩu hiệu: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”…
“Chúng tôi chỉ là những người lính bình thường nhưng may mắn được lịch sử ưu ái nên đã xuất hiện vào giờ phút huy hoàng nhất của dân tộc đó là khoảnh khắc húc đổ cổng Dinh Độc Lập, chấm dứt 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược”, ông Nguyên nhấn mạnh.
Chúng tôi chỉ là những người lính bình thường, may mắn được lịch sử ưu ái
Sau khi đất nước thống nhất, xe tăng 390 tiếp tục tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ quốc tế trên đất Campuchia. Khi cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra, chiếc xe lại lên tàu thủy ngược ra Bắc bảo vệ Tổ quốc. Năm 1980, xe tăng 390 về địa bàn Lạng Giang (Bắc Giang) và được sử dụng làm xe huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
Trong khi đó, xe tăng 843 được lệnh ra tiếp quản cảng Nhà Bè (nay là cảng Nhà Rồng) rồi hành quân về Tổng kho Long Bình. Sau đó, xe được đưa ra Hà Nội dự triển lãm mừng ngày thống nhất. Kết thúc triển lãm, xe tăng 843 trở về làm nhiệm vụ huấn luyện tại Lữ đoàn 203 cho đến năm 1979 thì được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ngày 1.10.2012, cả hai chiếc xe tăng 843 và 390 được công nhận là Bảo vật quốc gia.
Đến nay, tròn 50 năm đã trôi qua kể từ khoảnh khắc lịch sử mùa xuân năm 1975, kíp xe tăng 390 chỉ còn lại 3 trong số 4 thành viên khi ông Lê Văn Phượng qua đời năm 2016. Hòa trong không khí cả nước hướng tới kỷ niệm 50 năm đất nước thống nhất, ông Nguyên mong rằng thế hệ trẻ hiện nay sẽ không ngừng học tập, tu dưỡng để cống hiến, góp sức của mình cho công cuộc bảo vệ đất nước xã hội chủ nghĩa.