Từ nay, Thông tư 24/2023 của Bộ Công an chính thức có hiệu lực, chỉ còn một trường hợp duy nhất được bán xe kèm biển số.
Trường hợp nào được bán xe kèm biển số?
Từ 15/8/2023, biển số xe được cấp và quản lý theo mã định danh của chủ xe nên “người nào biển đó”.
Tuy nhiên vẫn có 01 trường hợp chủ xe được bán xe kèm theo biển số đó là khi chủ xe bán ô tô gắn biển số trúng đấu giá. Trình tự, thủ tục đăng ký xe trong trường hợp này được ghi nhận cụ thể tại khoản 3 Điều 28 Thông tư 24/2023/TT-BCA.
Việc cho phép bán xe kèm biển số đấu giá cũng được quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 73/2022/QH15.
Theo đó, Quốc hội cho phép người trúng đấu giá biển số xe được chuyển nhượng, trao đổi, tặng cho, để thừa kế xe ô tô gắn biển số trúng đấu giá nhưng không được chuyển nhượng, trao đổi, tặng cho, để thừa kế biển số xe ô tô trúng đấu giá.
Với các trường hợp bán xe thông thường, theo khoản 4 Điều 6 Thông tư 24/2023/TT-BCA, chủ xe không giao giấy đăng ký và biển số xe cho tổ chức, cá nhân mua, nhận tặng cho mà giữ lại để nộp cho cơ quan đăng ký xe làm thủ tục thu hồi.
Còn với trường hợp bán xe kèm theo biển số xe trúng đấu giá thì chủ xe phải nộp cho cơ quan đăng ký xe giấy chứng nhận đăng ký xe để làm thủ tục thu hồi, còn biển số được giữ lại ở xe.
Tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sở hữu xe nộp hồ sơ và làm thủ tục đăng ký sang tên xe theo quy định, được đăng ký, giữ nguyên biển số xe trúng đấu giá (chứng từ chuyển quyền sở hữu phải thể hiện rõ nội dung chuyển quyền sở hữu xe kèm theo biển số trúng đấu giá).
Tổ chức, cá nhân đã nhận chuyển quyền sở hữu xe kèm theo biển số xe trúng đấu giá, không được tiếp tục chuyển quyền sở hữu xe kèm theo biển số xe trúng đấu giá cho tổ chức, cá nhân khác; được chuyển quyền sở hữu xe theo quy định của pháp luật.
Quá 30 ngày chuyển quyền sở hữu xe, chủ xe không làm thủ tục thu hồi thì sẽ bị phạt ra sao?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 6 Thông tư 24/2023 của Bộ Công an, chủ xe khi bán, tặng cho, thừa kế, trao đổi, góp vốn, phân bổ, điều chuyển xe (sau đây gọi chung là chuyển quyền sở hữu xe) phải có trách nhiệm:
Giữ lại chứng nhận đăng ký xe, biển số xe (không giao cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sở hữu xe) và nộp cho cơ quan đăng ký xe chứng nhận đăng ký xe, biển số xe để làm thủ tục thu hồi; trường hợp chuyển quyền sở hữu xe kèm theo biển số xe trúng đấu giá thì chủ xe nộp cho cơ quan đăng ký xe chứng nhận đăng ký xe để làm thủ tục thu hồi;
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe, chủ xe phải làm thủ tục thu hồi. Trường hợp chủ xe không làm thủ tục thu hồi sau khi chuyển quyền sở hữu xe thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi vi phạm liên quan đến xe đó;
Sau khi chủ xe làm thủ tục thu hồi, tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sở hữu làm thủ tục đăng ký sang tên xe theo quy định.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày xe hết niên hạn sử dụng, xe hỏng không sử dụng được, xe bị phá hủy do nguyên nhân khách quan, chủ xe phải khai báo trên cổng dịch vụ công và nộp chứng nhận đăng ký, biển số xe cho cơ quan đăng ký xe hoặc Công an cấp xã (không phụ thuộc nơi cư trú của chủ xe) để làm thủ tục thu hồi.
Theo Khoản 7 Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP, quy định về việc xử phạt và mức xử phạt đối với hành vi không sang tên, đổi chủ xe ô tô như sau:
“Phạt tiền từ 2 – 4 triệu đồng đối với cá nhân, từ 4 – 8 triệu đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng, các loại xe tương tự xe ô tô”.
Như vậy, nếu sau 30 ngày vẫn chưa đi làm thủ tục sang tên đăng ký xe thì chủ xe sẽ bị phạt tiền từ 2 – 4 triệu đồng.