Nhà bà Tư có hai người con: con gái cả là chị Loan, tính tình sắc sảo, ăn nói đanh đá; con trai út là anh Minh, hiền lành, ít nói, lấy vợ là Hằng – cô giáo mầm non nhỏ nhẹ, biết điều nhưng không quen chịu đựng quá nhiều uất ức.
Ngày bà Tư nằm liệt vì tai biến, chị Loan tuyên bố dứt khoát:
– Mẹ tao thì đương nhiên thằng Minh và con Hằng phải lo. Tao còn công chuyện, không rảnh hầu hạ ngày đêm. Việc của đàn bà con dâu là phải biết báo hiếu.
Từ đó, mọi việc không tên đổ dồn lên vai Hằng. Sáng dậy sớm nấu cháo, trưa chạy về lau mình cho mẹ, tối thức khuya đút thuốc. Trong khi chị chồng chỉ ghé qua vài phút, tay không, rồi lại đi, miệng không quên mỉa:
– Chăm mẹ có chút vậy mà mặt mày lúc nào cũng như đưa đám. Không có mẹ thì cô đâu có chồng mà ăn no ngủ kỹ!
Một năm sau, bà Tư mất. Cả nhà lo hậu sự chu toàn. Chị Loan là người đứng ra chủ trì mọi việc, luôn miệng bảo:
– Mẹ tôi mà! Tôi phải lo cho trọn đạo làm con!
Thế nhưng, từ lúc bà mất đến ngày giỗ 100, chị Loan không một lần hỏi đến bàn thờ mẹ. Cỗ cúng, nhang khói – vẫn là Hằng tự tay làm hết.
Hôm đó – đúng ngày giỗ 100. Họ hàng tụ về. Cỗ bàn xong xuôi, chị Loan bước vào, đĩnh đạc ngồi giữa chiếu, bắt đầu kể công:
– Từ lúc mẹ bệnh đến lúc mất, tôi không thiếu mặt một ngày. Làm con gái mà, có chuyện gì thì cũng phải gánh vác. Chứ không như ai đó…
Chị liếc sang Hằng đầy ẩn ý.
Không khí ngột ngạt.
Hằng không nói gì. Cô lặng lẽ đứng dậy, đi vào phòng bà Tư từng nằm. Cô cúi xuống, thò tay vào phía dưới chiếc gối cũ kỹ. Moi ra… một cuốn sổ nhỏ và một bức thư tay đã ố vàng.
Đưa lên trước mặt mọi người, Hằng nhẹ nhàng nói:
– Đây là sổ tiết kiệm mẹ để dưới gối, không ai biết. Còn đây… là thư mẹ viết cho tôi, dặn dò rõ ràng.
Giọng cô đều đều, nhưng từng chữ vang như búa giáng:
– “Hằng à, mẹ biết con khổ vì con là người duy nhất ở bên mẹ khi mẹ không còn làm gì được. Chị nó thì nói giỏi, nhưng con mới là người lo cho mẹ từng miếng ăn, từng cái tã. Mẹ để lại 300 triệu tiền tiết kiệm, coi như cảm ơn con thay mẹ sống trọn đạo.”
– “Nếu sau này tụi nó tranh, con cứ đưa thư này ra. Không cần cãi.”
Không khí nổ tung như thùng thuốc súng bị châm ngòi. Mọi người sững sờ. Chị Loan bật dậy, giật lấy cuốn sổ, mở ra – tên người thụ hưởng: Nguyễn Thị Hằng – rõ ràng như tạc.
Chị tái mặt, gào lên:
– Mẹ không biết gì mà! Lúc đó mẹ liệt giường, viết được cái gì!
Hằng chỉ mỉm cười:
– Mẹ viết bằng tay trái. Và tôi đã giám định nét chữ rồi. Ai cũng biết mẹ là người thuận tay trái.
Cả nhà lặng thinh. Không ai nói được lời nào.
Một người em họ đứng dậy, gằn giọng:
– Người sống lo được cho người chết thì mới xứng nhận. Còn người chỉ biết kể công mà chẳng làm gì, đừng nói đạo hiếu ở đây.
Ngày hôm ấy, mâm cỗ giỗ mẹ không ai còn nuốt nổi. Mọi tranh công, mọi lời đay nghiến… bị một lá thư dưới gối người đã khuất vạch trần không sót mảy may.
Còn Hằng, cô cúi đầu trước di ảnh mẹ chồng, khẽ nói:
– Con xin rồi sẽ dùng số tiền này lo giỗ mẹ đủ ba năm. Như mẹ mong. Con không cần ai công nhận. Chỉ cần mẹ biết là đủ.
4o