Con gái tôi – đứa con gái Hà Nội mà tôi nâng như nâng trứng – bỗng dưng nằng nặc đòi cưới một anh chàng người Thanh Hóa. Tôi nghe xong suýt ngất.
Tôi từng thề: “Làm dâu đâu thì được, trừ Thanh Hóa!” – đơn giản vì tôi ác cảm với cái tính tằn tiện mà thiên hạ đồn đại. Nào ngờ con gái tôi lại dính đúng cái chỗ tôi ghét nhất.
Tôi ngăn cản đủ kiểu, từ mắng mỏ, cấm đoán đến khóc lóc. Vậy mà nó vẫn cứ ôm bụng về nhà, nước mắt lưng tròng: “Mẹ ơi… bác sĩ bảo cưới…”
Tôi và chồng chỉ còn biết chết đứng. Vì danh dự, vì cái thai trong bụng, tôi cắn răng gật đầu, nhưng bụng dạ thì đầy coi khinh. Tôi bảo chồng: “Cưới cho xong nợ, đừng mong được gì từ cái xứ ấy.”
Ngày lên nhà trai, tôi ăn mặc lạnh lùng, không buồn nở một nụ cười. Tưởng tượng sẽ thấy căn nhà cấp bốn tồi tàn, bàn ghế nhựa ọp ẹp, dăm ba đĩa kẹo lạc và mấy chai nước chè…
Nhưng vừa bước vào cổng, tôi và chồng đứng sững như trời trút sét. Cả một con đường dài từ ngoài vào sân được lát kín bằng… nem chua Thanh Hóa, từng chiếc được xếp thành hình rồng phượng, lung linh như đón vua.
Chưa kịp hoàn hồn, một dàn xe 7 chỗ lần lượt chạy vào – mỗi xe chở một phần sính lễ cầu kỳ, từ trâu vàng, gạo nếp đến rượu cần. Tôi quay sang chồng, ông ấy mặt cắt không còn giọt máu.
Rồi bà thông gia – người phụ nữ mà tôi từng dè bỉu “nhà quê” – bước ra trong bộ áo dài đỏ rực, tóc vấn cao, tay cầm 5 chiếc kiềng vàng sáng loáng, đặt xuống bàn giữa nhà, giọng lạnh tanh mà sắc như dao:
“Sính lễ này là để rước vợ cho trưởng nam dòng họ tôi. Còn 5 chiếc kiềng này, không phải của hồi môn, mà là… đền đáp cho cái thai trong bụng – là mệnh phượng hoàng sẽ nối dõi tộc Trần.”
Tôi chết lặng.
Cả họ nhà trai đồng thanh hô:
“Cảm ơn nhà gái đã mang long thai về cho dòng họ chúng tôi.”
Chồng tôi nắm chặt tay tôi, mà tay ông run bần bật.
Còn tôi, chỉ biết cúi đầu… bẽ bàng đến tận cùng.
Tưởng gả con cho chỗ nghèo, ai ngờ gả lên nhà thờ tổ truyền đời, đời con tôi giờ sang hơn cả giấc mơ!