Bố tôi là người đàn ông ít nói, nhưng hành động của ông luôn khiến người ta phải suy ngẫm. Mẹ tôi là con một, ông bà ngoại mất sớm, không có ai hương khói. Vì thế, bố quyết định lập bàn thờ cho ông bà ngoại ngay trong nhà chúng tôi, đặt cạnh bàn thờ tổ tiên nhà nội. Việc này không phải gia đình nào cũng chấp nhận, nhất là nhà nội vốn trọng truyền thống. Anh em ruột bên nội phản đối kịch liệt, cho rằng bố “rước người ngoài” vào nhà, làm ô uế dòng họ. Họ cắt đứt quan hệ, từ mặt bố, thậm chí còn không thèm bước chân qua ngõ nhà tôi nữa.
Mẹ tôi, người phụ nữ hiền lành nhưng sâu sắc, chẳng bao giờ cãi lại ai. Vậy mà, một hôm, mẹ âm thầm lên kế hoạch. Hôm ấy là ngày giỗ ông ngoại. Mẹ không nói với ai trong nhà, lặng lẽ đi mời cả làng – từ ông trưởng họ, bà cụ bán nước chè đầu xóm, đến mấy anh thanh niên hay tụ tập đánh bài. Mẹ bảo: “Nhà tôi làm giỗ, mời mọi người đến chung vui, kẻo ông bà buồn.” Cả làng kéo đến, đông như hội. Bàn ghế kê kín sân, mâm cỗ đầy ắp, tiếng cười nói rôm rả.
Tin đồn lan nhanh. Anh em nhà nội nghe chuyện, ban đầu còn định tảng lờ, nhưng rồi không chịu nổi ánh mắt dò xét của hàng xóm. Họ kéo nhau sang, mặt mày hằm hằm, định lớn tiếng trách móc. Nhưng khi bước vào nhà, thấy bàn thờ ông bà ngoại đặt trang nghiêm, cỗ bàn tươm tất, cả làng quây quần, họ cứng họng. Mẹ tôi nhẹ nhàng mời họ ngồi, như chẳng có chuyện gì xảy ra. Bố tôi thì chỉ lặng lẽ rót rượu, nhìn anh em nhà nội bằng ánh mắt bình thản.
Cả làng khen bố mẹ tôi hiếu nghĩa, trọng tình. Anh em nhà nội ngồi đó, chẳng ai dám mở miệng cãi nữa. Họ muối mặt, không phải vì thua lý, mà vì thấy mình nhỏ nhen trước tấm lòng của bố mẹ tôi. Từ hôm ấy, nhà nội chẳng ai dám nhắc lại chuyện cũ. Bàn thờ ông bà ngoại vẫn ở đó, khói hương nghi ngút, như minh chứng cho sự hòa thuận mà bố mẹ tôi đã lặng lẽ gìn giữ.