Thằng bé tên Nam, mới chín tuổi, hiếu động, nghịch ngợm như bao đứa trẻ con làng. Hôm đó, trời oi ả, tụi trẻ rủ nhau ra đập làng tắm trưa. Ai ngờ, mấy tiếng sau, chỉ thấy lũ trẻ hớt hải chạy về hét lên: “Nam rơi xuống đập rồi!”
Dân làng ùa ra. Họ lặn, họ mò, họ kéo từng lớp bèo, từng sợi rong rêu dưới đập. Nhưng… không thấy gì. Cứ như thằng bé bốc hơi. Ngày một trôi qua. Rồi ngày hai. Cả làng rải lưới, cắm câu, lập đàn, đốt hương. Nhưng xác vẫn biệt tăm.
Tới ngày thứ năm, cả nhà bắt đầu rệu rã. Mẹ nó khóc cạn nước mắt, bố thì ngồi như tượng đá ở hiên. Chỉ có con bé Mai – chị nó, mười một tuổi – là cứ lặng lẽ ngồi trong góc nhà, cầm bút chì vẽ suốt.
Không ai để ý.
Cho đến khi bà nội nó nhìn thấy một xấp giấy vẽ nằm xộc xệch dưới gầm phản. Bà cúi nhặt lên, lật từng tờ, rồi khựng lại. Bức cuối cùng là một bãi đất nhỏ ven đập – nơi mà từ đầu đến giờ chưa ai mò tới. Trên tờ giấy, nét vẽ bằng chì mờ tỏ hiện lên một ụ đất nhô cao, có bụi lau xám và chiếc dép nhựa nhỏ nằm chỏng chơ.
Bà nội hét toáng lên gọi cả nhà. Mọi người ùa đến. Ông bố run tay cầm bức vẽ, nhìn chăm chăm, rồi như bị thôi thúc, lao ra đập. Họ đi đúng hướng như trong bức vẽ. Cả đám người dừng lại trước một ụ đất nhỏ bị khuất sau lùm cây ven bờ. Ở đó, nước không sâu, nhưng vắng người.
Và rồi… họ thấy. Một mảnh áo đỏ thò ra khỏi mặt nước, bị rong rêu quấn lấy. Dưới lớp bùn lầy, là thằng bé Nam – đã nằm đó suốt năm ngày.
Không ai nói được lời nào. Chỉ có con bé Mai, vẫn ngồi trong góc nhà, tay nắm chặt bút chì, ánh mắt trống rỗng nhìn ra khoảng sân đầy nắng.
Bức vẽ cuối cùng – là bức duy nhất nó không còn nhớ là mình đã vẽ.